Mục
đích của đối thoại trong doanh nghiệp là nhằm chia sẻ thông tin, tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau, từ đó tìm ra sự đồng thuận giữa các bên
trong quan hệ lao động, giữa NLĐ, mà đại diện là tổ chức công đoàn và
NSDLĐ, tạo ra sự hợp tác giữa NLĐ và NSDLĐ, nhờ đó thúc đẩy doanh nghiệp
phát triển bền vững.
Hiện
nay ở nước ta các doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức, trong
đó tình trạng xảy ra tranh chấp lao động dẫn đến đình công không đúng
trình tự pháp luật có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng tới an ninh, trật
tự xã hội và môi trường đầu tư, làm thiệt hại cho NLĐ, cho doanh nghiệp
và cho cả nền kinh tế. Tính từ năm 1995 đến hết năm 2013, cả nước đã xảy
ra 5.264 cuộc ngừng việc tập thể, đình công tự phát của NLĐ, bình quân
293 cuộc/năm. Thời gian gần đây, t́nh hình đình công có xu hướng gia
tăng, nhất là từ năm 2010 đến nay. Theo thống kê của các cơ quan hữu
quan, trong 4 năm, từ 2010 đến 2014 đã có 2.296 cuộc đình công xảy ra,
như vậy trung bình mỗi năm có 574 cuộc đình công.
Nguyên
nhân chính của tình hình trên chủ yếu là do NSDLĐ chưa thực hiện đầy đủ
các quy định của pháp luật lao động, chưa quan tâm đúng mức tới quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Điều kiện lao động, sinh hoạt
vật chất và tinh thần của NLĐ trong nhiều doanh nghiệp chưa được bảo
đảm, công tác quản lý nhà nước về lao động còn nhiều hạn chế, nhiều
doanh nghiệp ngoài Nhà nước chưa có tổ chức Công đoàn hoặc có nhưng công
đoàn hoạt động chưa hiệu quả, đa số NLĐ xuất thân từ nông thôn nên nhận
thức, hiểu biết về chính sách, pháp luật lao động còn hạn chế.
Tuy
nhiên, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là ở chỗ các doanh nghiệp
chưa tổ chức được đối thoại với NLĐ khi có bức xúc trong quá trình làm
việc, hoặc NSDLĐ áp đặt các quy định quản lý mà không tham khảo ý kiến
của NLĐ.
Vì
vậy đối thoại kịp thời, thường xuyên chính là giải pháp quan trọng nhằm
giải quyết tốt các xung đột trong quan hệ lao động, tạo dựng mối quan
hệ lao động hài hoà, tiến bộ và ổn định trong doanh nghiệp, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh phát triển.
Mặc
dù đối thoại tại doanh nghiệp có vai trò quan trọng như vậy, nhưng
trong nhiều năm qua, đối thoại vẫn chỉ là việc làm tự nguyện và xuất
phát từ nhu cầu của các bên, có nghĩa là các bên trong quan hệ lao động
muốn thực hiện cũng được, mà không muốn cũng không sao. Tuy nhiên từ khi
Bộ luật Lao động 2012 được ban hành thì nội dung về đối thoại tại nơi
làm việc đă được luật hoá và được quy định tại Chương V, Mục I.
Ngày
19/6/2013 Chính phủ ban hành Nghị định 60/2013/NĐ - CP hướng dẫn thi
hành Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ tại nơi làm việc,
trong đó có quy định về đối thoại tại nơi làm việc.
Theo
quy định hiện hành của Bộ luật Lao động và Nghị định 60/2013/NĐ - CP
thì tất cả các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp, các tổ chức, cá nhân có thuê mướn và sử dụng lao động theo hợp
đồng lao động đều thuộc phạm vi bắt buộc phải tổ chức đối thoại.
Pháp
luật hiện hành quy định rõ, NSDLĐ chủ trì phối hợp với ban chấp hành
công đoàn tổ chức hội nghị đối thoại định kỳ 3 tháng một lần để trao
đổi, thảo luận những vấn đề mà hai bên quan tâm. Trường hợp thời gian tổ
chức đối thoại mà trùng với thời gian tổ chức Hội nghị NLĐ, thì không
phải tổ chức đối thoại định kỳ nữa.
Ngày
20/11/2013, Tổng Liên đoàn LĐVN ban hành Hướng dẫn 1755/HD - TLĐ về
việc công đoàn tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại
nơi làm việc. Tại phần 2 của hướng dẫn này, đă quy định chi tiết về việc
công đoàn tham gia xây dựng quy chế đối thoại, về thành phần tham gia
đối thoại ở nơi có công đoàn cơ sở và nơi chưa có công đoàn cơ sở, về
nội dung, nguyên tắc và hình thức đối thoại.
Nội
dung đối thoại tại doanh nghiệp gồm những vấn đề liên quan đến tình
hình sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ; việc thực hiện hợp đồng lao động,
thỏa ước lao động tập thể, nội quy, quy chế và cam kết, thỏa thuận khác
tại nơi làm việc; điều kiện làm việc; yêu cầu của NLĐ, tập thể lao động đối với NSDLĐ; yêu cầu của NSDLĐ với NLĐ, tập thể lao động và nội dung khác mà hai bên quan tâm.
Mỗi
bên tham gia đối thoại quyết định số lượng thành viên đại diện của mình
tham gia đối thoại, số lượng thành viên đại diện mỗi bên phải có ít
nhất là 03 người. Thành phần tham gia đối thoại bên NSDLĐ gồm NSDLĐ hoặc
người được ủy quyền hợp pháp và các thành viên đại diện cho bên NSDLĐ
cử; bên đại diện NLĐ gồm ban chấp hành công đoàn cơ sở và các thành viên
đại diện cho bên tập thể NLĐ do hội nghị NLĐ bầu ra.
Trong
quá trình đối thoại, các thành viên tham gia đối thoại có trách nhiệm
cung cấp thông tin, số liệu, tư liệu, trao đổi, thảo luận dân chủ các
nội dung đối thoại. Kết quả cuộc đối thoại phải lập biên bản cuộc đối
thoại, ghi rõ những nội dung đă thống nhất và các biện pháp tổ chức thực
hiện; những nội dung chưa thống nhất và thời gian tiến hành đối thoại,
những nội dung chưa thống nhất hoặc mỗi bên tiến hành thủ tục giải quyết
tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật lao động. Biên bản đối
thoại phải được ký tên, đóng dấu và niêm yết công khai tại doanh nghiệp,
phòng, ban, phân xưởng, tổ, đội sản xuất và đăng tải trên hệ thống
truyền thanh, thông tin nội bộ hoặc trang thông tin điện tử của doanh
nghiệp.
Theo
báo cáo của 41 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành
Trung ương đến thời điểm 31/5/2014, trong tổng số 14.600 doanh nghiệp
các loại, đã có 7.461 doanh nghiệp (bằng 51% tổng số doanh nghiệp báo
cáo) đã tổ chức đối thoại giữa NLĐ và NSDLĐ; 9.200 doanh nghiệp tổ chức
Hội nghị NLĐ (bằng 63% tổng số doanh nghiệp); 10.030 doanh nghiệp (bằng
68%) thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể.
Mặc
dù quy định về đối thoại tại doanh nghiệp đang là vấn đề mới, tuy nhiên
đến nay đã có trên 50% số doanh nghiệp tổ chức đối thoại là một tín
hiệu đáng khích lệ.
Kinh
nghiệm trong thời gian qua cho thấy, nơi nào tổ chức tốt đối thoại thì
nơi đó có bầu không khí chân thành, cởi mở, NLĐ và NSDLĐ hiểu biết nhau
hơn, chia sẻ với nhau nhiều hơn và nhờ đó quan hệ lao động cũng hài hoà,
ổn định và tiến bộ hơn. Vì vậy, doanh nghiệp ổn định và phát
triển, chất lượng hàng hóa được nâng lên và năng lực cạnh tranh được
cải thiện rõ rệt.
Để
việc tổ chức đối thoại đạt kết quả cao, trong thời gian tới các cấp
công đoàn cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền cho NSDLĐ và NLĐ các quy
định của pháp luật về đối thoại tại doanh nghiệp. Tổ chức tập huấn cho
doanh nghiệp về trình tự, thủ tục, các quy định hiện hành về đối thoại
tại doanh nghiệp. Công đoàn cấp trên cần hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ công
đoàn cơ sở kỹ năng đối thoại, tổ chức đào tạo, tập huấn cho thành viên
tổ đối thoại về phương pháp và cách thức đại diện NLĐ tiến hành đối
thoại với NSDLĐ. Làm được như vậy chắc chắn sẽ nâng cao được chất lượng
và số lượng doanh nghiệp thực hiện đối thoại, góp phần xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ.